Monday, December 15, 2008

Phần 1-Những Tên Đặc Công Đỏ - Việt Thường-Nam Nhân -Lý Tuấn

Những tên đặc công đỏ

trong phong trào

đòi dân chủ cho Việt Nam


Việt Thường – Nam Nhân – Lý Tuấn

Bài 1

Bùi Tín:

Tên đặc công mở đường thâm nhập

Cộng đồng người Việt Tỵ nạn cộng sản

*****

Thưa ông Bùi Tín,


Nhân dịp đầu Xuân Quý Mùi (2003), ông cho công bố "Một phương án đổi mới trình đồng bào cả nước". Và, ông kêu gọi mọi người tham gia thảo luận, góp ý.

Ghi nhận lời nhắc nhở của ông là: "dám suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của mình, hoài nghi một số định lý, chân lý, tín điều cũ, dám nói to điều mình cho là đúng, khi cần dám cưỡng lại số đông.”

* Trên tinh thần ấy, chúng tôi xin chân thành thảo luận và đóng góp ý kiến với ông, hy vọng sẽ đưa ra công luận những sự thật của lịch sử Việt Nam đương đại.

* Trước hết, chúng tôi xin hoan nghênh ông đã tuyên bố từ bỏ 9 huân chương kháng chiến, quân công, chiến công, chiến sỹ vẻ vang đã được khen thưởng trong suốt chiều dài 47 năm tận tụy phục vụ cho đảng cộng sản Việt Nam. Chính hành động này của ông đã khiến chúng tôi chấp nhận đối thoại với ông lần đầu tiên nhân dịp Xuân Quý Mùi này (2003). Tuy nhiên cũng xin lưu ý đến ông rằng, ở Hoa xuyên tuyết (XB Nhân quyền – 1991), trang 195, ông khoe được thưởng 16 (mười sáu) cái. Vậy còn 7 (bảy) cái ông giữ lại để làm gì???

Tại sao phải đến tận bây giờ chúng tôi mới chấp nhận đối thoại? Thưa ông, chính do nội dung 2 cuốn sách "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông đã khiến chúng tôi nhận ra rằng: chỗ đứng của chúng ta trong xã hội Việt Nam khác nhau về căn bản nên phương pháp tiếp cận sự thật, mô tả sự thật của chúng ta hoàn toàn ngược nhau. Và, ông viết bậy hơn là viết thật! Đồng thời nên nhớ rằng:


Chỗ đứng của ông là chỗ đứng của kẻ cai trị.

Chỗ đứng của chúng tôi là chỗ đứng của người bị trị, của người chống xâm lược.


Yêu nước hay bán nước?

Trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", ông đã trưng dẫn rất nhiều hình ảnh sống động, bằng cả số liệu để chứng minh cho những tội ác mà Hồ chí Minh và tập đoàn nắm quyền trong đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam cho đến tận giờ phút này, đều bắt nguồn từ việc sao chép, áp đặt cái gọi là chủ nghĩa Stalin của Nga-xô và tư tưởng Mao trạch Đông của Tàu cộng. Đã có lúc ông tiệm cận được chân lý khi ghi nhận câu nói của một nhà báo Mỹ (ông không ghi rõ tên) gặp ông ở Sài-gòn khoảng 1976-1977, rằng: "Các ông đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã không thắng được trong hòa bình, các ông không chinh phục cũng không giải phóng được miền Nam, các ông xử sự như những đội quân chiếm đóng"(1). Và, ông nhận xét câu nói đó "thật là sâu sắc", có nghĩa ông nhận thấy cách hành xử của giới chức cộng sản cầm quyền và quân lính của tướng Trần Độ tôi luyện là những tên xâm lược. Đó là khía cạnh nhạy bén của một nhà báo kỳ cựu và được tiếp xúc với bên ngoài nhiều, nhưng vì chỗ đứng là "đảng viên cộng sản ở vị trí có quyền" nên ông mượn lời một nhà báo Mỹ khuyết danh để che đậy cái thế éo le của ông: người thức thời trong hàng ngũ lũ bán nước!

Dám nhìn vào cuộc sống thật của nhân dân Việt Nam, nhưng ông lại phải làm cái việc bảo vệ chỗ đứng của ông, bảo vệ cái tổ chức mà ông đã đầu tư toàn bộ niềm tin, tuổi trẻ; cả mồ hôi và máu, cho nên ông đã chân thật viết rằng: "Trên tinh thần ấy, tôi không thể quay ngoắt lại chửi bới đảng cộng sản, nói xấu đủ điều, phóng đại những sai lầm và tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt."(2)

Cái thế éo le đó của ông đã khiến ông luôn luôn mô tả thì tương đối chân thật, nhưng kết luận thì tránh né cốt lõi của sự thật – nghĩa là viết bậy!!!

Hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông được viết ra sau khi cả Nga-xô và khối chư hầu Đông-âu của nó đổ kềnh. Nhiều tài liệu phong phú đã bổ xung cho việc vạch trần những tội ác trời sầu đất thảm của tập đoàn cai trị ở các nước gọi là "phe xã hội chủ nghĩa". Những người làm cái việc vạch trần các tội ác đó, phần lớn đều sống trong "địa ngục xã hội chủ nghĩa", và cũng hầu hết đều ở cái thế éo le như ông. Nghĩa là, một tay thì vạch sự thật, còn tay kia tự che mắt không dám thấy tay mình cũng có máu. Vì thế cách lập luận cứ vòng vo tam quốc, trình bày theo lối hàn lâm, kinh viện, tránh né nói toạc móng heo cho dễ hiểu.


Thí dụ: Lê-nin là cha đẻ của chủ nghĩa thực dân đỏ thì lại gọi là chủ nghĩa Lê-nin. Lê-nin mượn chủ nghĩa Marx làm bộ áo cà-sa để che đậy bộ mặt bành trướng bá quyền. Vì thế nên ngay lúc Nga-xô còn bao khó khăn, Lê-nin phải ký hiệp ước để các nước vùng Baltique và Ukraine chịu ảnh hưởng của Đức, thì từ đầu những năm 1920 đã cho lệnh tiến quân đánh chiếm Ngoại-mông (nay là nước Mông cổ), đặt thành thuộc quốc trên thực tế, còn về danh xưng thì màu mè gọi là "nước bạn". Rồi lại đẻ ra cái gọi là "Quốc tế 3" với luận điểm ủng hộ sự giải phóng của các thuộc địa (ra khỏi chủ nghĩa thực dân "xanh") mà thực chất đó là công cụ của Nga-xô nhằm tuyển mộ, đào tạo người của các nước, nắm chặt cả thân xác lẫn linh hồn của họ, biến họ thành tay sai, trở về tổ chức chống "thực dân xanh" để rồi tự nguyện làm nô lệ cho thực dân đỏ (là chế độ được đội tên là "Liên bang xô viết).

Mao trạch Đông của Tàu cộng thấy được âm mưu đó của Nga-xô, cho nên cũng dùng cái áo "chủ nghĩa Marx-Lê-nin" để chống lại Nga-xô và cũng muốn giành quyền độc tôn trong chủ nghĩa thực dân đỏ mà thôi.

Chẳng làm gì có cái gọi là "chủ nghĩa giáo điều (hay phần tử giáo điều)". Nếu nhìn vào hành động thực tế thì cả Lê-nin và cả Mao đều là "xét lại" so với chủ nghĩa Marx. Lê-nin đã nói và làm ngược với Marx là "cách mạng có thể thành công ở một nước"; còn Mao thì dựa vào nông dân chứ không dựa vào công nhân, và lấy "nông thôn bao vây thành thị". Vậy họ "giáo điều" ở chỗ nào?

Vì thế, nên những mục tiêu của chủ nghĩa Marx lại chỉ xuất hiện ở các nước "tư bản, đế quốc", như về năng suất lao động, về phúc lợi xã hội, nhân quyền, tự do, dân chủ v.v. Còn ở các nước lấy chủ nghĩa Marx-Lê-nin làm kim chỉ nam thì hoàn toàn ngược lại. Cũng may là nhờ ăn, ở trong nước tư bản, nghiên cứu, sáng tạo và phổ biến trong điều kiện của nước tư bản mà các tác phẩm của Marx được quảng bá, và Marx chết cũng trong yên lành. Chứ giả dụ: nếu Marx ở một trong bất cứ nước nào với mô hình "xã hội chủ nghĩa" thì chắc chắn Marx sẽ được đưa vào "tầng đầu của địa ngục", hoặc bị nghiền nát ở "Quãng trường Thiên an môn", hoặc đập đá ở trại giam Đầm Đùn của Hồ chí Minh cho đến chết rồi!!!

Những thông tin trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông chỉ rất phong phú với người chưa sống qua hoặc sống mà không có điều kiện hoặc không đặt mục tiêu nghiên cứu về cuộc sống của người dân dưới cái gọi là "chế độ xã hội chủ nghĩa". Còn với người đã có ít nhiều kinh nghiệm về sự cai trị của tập đoàn Hồ chí Minh và những kẻ nối nghiệp hắn thì còn hời hợt, còn nhiều chỗ sai và nhiều mâu thuẫn, quanh co.

Như chúng tôi đã nhận xét, rằng chỗ đứng của ông là của kẻ cai trị, mà lại là kẻ cai trị trong tổ chức cộng sản, nên nó vẫn đậm màu sắc ban ơn, kẻ cả và mâu thuẫn. Thí dụ, ngay những trang đầu của "Hoa xuyên tuyết", ông đã viết: "Các bạn trẻ là tương lai của đất nước. Hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa. Các bạn hãy coi đây là lời tâm sự, là lời tâm huyết của một người đi trước nhận tội lỗi của thế hệ mình, của chính mình trước thế hệ trẻ thân yêu và tin cậy."(3)

Trong đoạn văn nêu trên, ông kêu gọi "hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại", nhưng rồi ông lại cũng ủng hộ hết mình lập luận kêu gọi: "quên quá khứ". Thậm chí ông còn đi xa hơn khi viết: "không nhắc đến những người đã quá cố vì họ không có khả năng tự bảo vệ nếu họ bị lên án". (4)(!!!???)

Và, y hệt giới chức có quyền của cộng sản, luôn luôn tự cho phép thay mặt mọi người mà chẳng hề hỏi ý kiến ai. Cao và xa thì như việc bảy (7) tên cộng sản Việt Nam dám thay mặt cả nhân dân Lào và Cam-bốt, để theo lệnh của Quốc tế 3 (Nga-xô) thành lập "đảng cộng sản Đông dương"; gần thì Hồ chí Minh và cái dúm tay chân của hắn "tự cho phép thay mặt nhân dân Việt Nam" để xây dựng cái gọi là chủ nghĩa xã hội; để dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng; dâng cảng Cam-ranh cho Nga-xô v.v. Ông cũng thế, ông Bùi Tín ạ! Làm sao ông có thể và có quyền thay mặt cho thế hệ của ông để nhận tội với thế hệ trẻ?(!)

Trong thế hệ của ông, số như ông là bao nhiêu? Ngay từ 1945, những người của đảng Đại Việt đã thấy cái chất yêu tinh trong lốt người của Hồ chí Minh; rồi tiếp đến là Đức cha Lê Hữu Từ cùng với giáo dân, nhất là ở địa phận Bùi Chu và Phát Diệm; rồi các người theo các giáo phái Cao-đài, Hòa-hảo v.v… cho nên mới có chuyện "bất hợp tác" với Hồ. Từ sau các phong trào do Hồ chí Minh phát động như "đấu tranh chính trị", "rèn cán chỉnh quân" và sự công khai trở lại cái công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức chủ nghĩa Lê-nin – Stalin) là đảng cộng sản Đông dương, phân thân làm ba (3) cho dễ biến hóa, mà cái phần ở Việt Nam gọi là "đảng Lao động VN", thì những người ở thế hệ của ông đã ào ào tụ họp lại thành lực lượng chống sự xâm lược của thực dân đỏ. Lúc đó, chưa có điều kiện, chưa có nhiều dữ kiện cụ thể để chứng minh được cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã bị Hồ chí Minh lèo lái thành cuộc chiến dùng người Việt Nam chết cho chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô, tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp. Cho nên người ta đã mơ hồ gọi là cuộc chiến quốc – cộng, hoặc có khi gọi là chiến tranh ý thức hệ, để sau này còn lầm lẫn nặng hơn khi gọi đó là cuộc chiến huynh – đệ!!! Đây là cuộc chiến giữa nhân dân Việt Nam chống những tên Việt gian, lính đánh thuê cho thực dân đỏ Nga-xô, Tàu cộng. Nghĩa là chống thực dân đỏ xâm lược.

Ông đã kinh ngạc khi kể lại những chuyện Hồ chí Minh bị Stalin và Mao coi thường như thế nào; Hồ và lũ cán bộ cộng sản của Hồ đã răm rắp tuân theo một cách ngoan ngoãn những lệnh của Stalin, những ý kiến của cố vấn Tàu do Mao phái sang. Ông đã tả rất sinh động cảnh các cố vấn Tàu cộng ngồi gác hai chân lên bàn, nhổ nước miếng ồn ào rất là Tàu và ra mọi mệnh lệnh, và từ Hồ cho đến Trường Chinh, Hoàng quốc Việt v.v… kính cẩn chấp hành.

Ông là người đọc nhiều, đi nhiều, gặp gỡ nhiều, xin hỏi ông có thấy trong lịch sử Việt Nam và các nước trên thế giới (ngoại trừ các nước chư hầu cộng sản của Nga-xô và Tàu cộng) có chuyện như vậy xảy ra không? Chắc chắn là không. Còn nếu có thì chỉ xảy ra giữa mẫu quốc và thuộc địa; giữa khâm sai thiên triều với lũ tay sai bán nước mà thôi!

Chính vì chỗ đứng của ông ngược với chúng tôi, nên tuy có thức thời nhìn ra những cảnh trên, nhưng vì không dám "tự phủ định chính mình" (như ông viết), nên ông bào chữa cho bộ mặt bán nước của Hồ và chân tay kế cận là bị ảnh hưởng của Stalin-nít và Mao-ít!!!

Ông thử trích xem trong "chủ nghĩa Stalin" và "chủ nghĩa Mao" có chỗ nào qui định cho "cố vấn" ngồi gác hai chân lên bàn, khạc nhổ bừa bãi và ra lệnh cho "chủ tịch nước", "tổng bí thư đảng" v.v… và tất cả phải chấp hành không dám bàn cãi, dù phải rất tàn bạo đối với cả ân nhân của mình, như cái chết của bà Nguyễn thị Năm (tức Cát thành Long) là một ví dụ.

Vì không dám nhìn vào cái sự thật của những hành động và thái độ Việt gian đó của tập đoàn Hồ chí Minh nên ông đã viết sai với sự thật rằng: "tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9-1945 đến 10-1982” (5).

Vào thời điểm 1945, ngay tại Pháp, trong chính phủ của tướng Đờ-Gôn có sự tham gia của Mô-rít Thô-rê, là chủ tịch đảng cộng sản Pháp, thế mà Hồ lại phải giải tán đảng cộng sản Đông dương? Trong khi các đảng khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội tham gia Chính phủ Liên hiệp, đâu cần phải giấu mặt như Hồ và bè lũ. Tại sao vậy? Bởi vì nhân dân Việt Nam ghê tởm bàn tay máu của cộng sản từ cái gọi là Xô-viết Nghệ-tĩnh, và Hồ còn muốn cố che cái công cụ bành trướng của thực dân đỏ khỏi bị chú ý đến.

Mong ông hãy tham khảo lại "Biên niên tiểu sử của Hồ" (có trong cái gọi là "Bảo tàng cách mạng") để thấy rằng thời kỳ đầu ra đời của lực lượng vũ trang là do sự hợp nhất các lực lượng vũ trang của các đảng phái, có cả bảo an binh của Chính phủ Trần Trọng Kim để lại. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ) là bộ trưởng quốc phòng; giáo sư Tạ quang Bửu (khi đó chưa là cộng sản) giữ chức thứ trưởng và các cán bộ khung là Hoàng đạo Thúy (huynh truởng hướng đạo) làm chính trị vụ trưởng; bác sỹ Vũ văn Cẩn (nhân sỹ yêu nước) làm y tế vụ trưởng, và Vũ Anh (Việt minh) làm chế tạo vụ trưởng. Lực lượng vũ trang được gọi là quân đội quốc gia, được đặt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp, chứ không phải của đảng cộng sản!

Trong cái lực lượng quân đội đó, nhân sự là cộng sản hồi ấy chỉ có một nhúm rất nhỏ mà cũng chẳng dám công khai nhận mình là cộng sản. Số lớn những người có tài là từ lực lượng vũ trang của VNQDĐ như các tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v. Một số khác từ lò lính Pháp mà ra, rồi vào lực lượng bảo an binh, như Lê trọng Tấn, Bằng Giang, Lô Giang. Số khác là từ học sinh, sinh viên như các tướng Vũ Lăng, các đại tá Lê minh Nghĩa, trung tá Nguyễn sanh Thí. Thậm chí cả những người được đeo lon cấp tá như Nguyễn đình Thi, Đỗ Nhuận, Trần Dần, Hoàng Cầm, Cao kim Điển, Quang Dũng v.v. cũng chẳng biết cộng sản là cái quái gì khi gia nhập quân đội. Và, chính ông cũng thế. Phải chờ đến sau khi Mao làm chủ lục địa, quân đội Quốc gia Việt Nam bị Hồ, nhân danh Chính phủ Liên hiệp, đưa qua Tàu làm cái việc tẩy não, rèn cán chỉnh quân, dụ khị, cưỡng bức mọi người gia nhập cộng sản, biến cái chính nghĩa của Quân đội Quốc gia trong nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và dân tộc khỏi ách thực dân Pháp thành ngụy quân và cái danh xưng Quân đội Quốc gia bị đánh tráo thành "quân đội nhân dân" hay "bộ đội cụ Hồ"(!!!), công cụ của thực dân đỏ, để tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp trên toàn cõi Đông-dương.

Cho nên cái lực lượng vũ trang mà ông tham gia thoạt kỳ thủy không phải do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo" như ông đã viết. Vì thời kỳ đó về công khai làm gì có đảng cộng sản!!! Huấn luyện viên của các trường quân chính hầu hết không ai là cộng sản mà là hàng binh Nhật trốn ở lại; là cai, đội người Việt trong lính của Pháp cũ; là lực lượng bảo an binh của chính phủ Trần Trọng Kim để lại v.v. Quân đội đó từ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà ra, theo lời kêu gọi của Chính phủ Liên hiệp.

Ngay Trần Độ, trong hồi ký viết lần đầu, do Nhà xuất bản Thanh niên in năm 1957, có kể rằng: cuối 1944, Trần Độ là bảo vệ của Trường Chinh, được Trường Chinh trao cho một khẩu súng lục Browning và 2 viên đạn. Trần Độ giữ súng đạn mà vẫn chưa biết sử dụng. Một hôm đi qua Nghĩa đô thuộc huyện Từ liêm (Hà-nội), bị trương tuần của làng vây bắt. Trần Độ rút súng ra, tuy không có đạn nhưng trương tuần không biết nên sợ hãi bỏ cho Trần Độ đi thoát. Sang giữa năm 1946, Trần Độ được đưa về trung đoàn Thủ đô, cũng vẫn chưa biết gì về súng. Đơn vị có khẩu trung liên của lính người Việt trong đơn vị lính Pháp lấy mang về. Anh em thấy Trần Độ do trên phái tới, tưởng giỏi lắm, nhờ Trần Độ chỉ dẫn. Trần Độ có biết gì đâu, nhưng láu vặt, không thực thà nói rằng không biết mà giả vờ lệnh cho người lính Việt Nam đã ở trong binh lính của Pháp ra tháo và lắp khẩu súng cho anh em xem, nhân đó Trần Độ cũng học mót.

Quyển hồi ký đó của Trần Độ ra lò cùng thời cuốn "ký sự Điện biên", năm 1957, chắc chắn còn lưu giữ trong thư viện Quốc gia (phố Tràng thi, Hà-nội). Nếu ông chưa từng đọc qua, có thể e-mail về Việt Nam, nhờ ai đó đọc hộ. Từ đó để thấy, sau 45 năm, tưởng thiên hạ quên hết chuyện cũ, nên trung tướng cộng sản Trần Độ đã tự ý sửa lại hồi ký của mình, năm 1957, để từ bảo vệ (tức lính hầu) của Trường Chinh, thành "được đảng phân công giúp việc cho tổng bí thư Trường Chinh"(6) (Đúng là Cuội nên là tướng "chính ủy" có khác!!!)

Tiếp theo là các chính sách Việt gian nữa của Hồ đã khiến nhân dân Việt Nam chia làm hai khối. Một do Hồ cầm đầu quyết từng bước nhuộm đỏ toàn Đồng dương, biến Đông dương thành thuộc địa kiểu mới cho Nga-xô như Hồ đã nhận lệnh từ 1930, khi lập ra đảng cộng sản Đông dương. Khối còn lại là những người Việt Nam quyết bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chính dã tâm của Hồ đã khiến năm 1954 Việt Nam tạm bị chia cắt làm hai miền qua hiệp định Genève về Việt Nam.

Ngay khi thi hành hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, bọn Hồ đã có dã tâm vi phạm. Chính ông đã kể lại lời Lê Duẩn rằng: "Tôi nghĩ ngay đến bạo lực. Tôi bảo anh em chôn súng. Tôi bàn với anh em để lại lực lượng ở miền Nam không tập kết hết cả đâu nhé." (7) Và ông cũng có nói đến nghị quyết 15 (khóa 2), của cộng sản Việt Nam, hạ quyết tâm dùng bạo lực vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam. Cái nghị quyết 15 ấy được ra đời trong cuộc họp dưới sự chủ trì của Hồ vào tháng 1-1959 (không hiểu sao ông lại viết lầm là 1960). Vì thế đến tháng 10-1959 chính phủ Ngô Đình Diệm phải có sắc luật 10/59 để tự vệ chống chủ trương bạo lực của cộng sản.

Đó là bằng chứng rõ ràng về dã tâm của tập đoàn Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân và chính quyền miền Nam Việt Nam vì tự vệ đã phải trừng trị những tên tay sai của thực dân đỏ nằm vùng, dùng bạo lực cướp của, giết người, phá hoại đời sống của người dân miền Nam. Nhưng do chỗ đứng của ông, nên ông đã nhìn sự việc lộn ngược, gọi bọn cướp của, giết người; bọn Việt gian, tay sai của thực dân đỏ đó là: "những người yêu nước"!!!(?)


Thưa ông Bùi Tín,


Những người Việt Nam rời vùng Hồ chí Minh cai trị, chạy vào thành thị trước năm 1954; những người từ Bắc di cư vào Nam, năm 1954; toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam cùng với bây giờ là đại bộ phận người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại (loại trừ bọn nằm vùng, bọn gọi là "thành phần thứ ba", bọn cơ hội chủ hàng), và phải kể đến cả những người dân thường ở Bắc Việt Nam - mà ông gọi là công dân loại 2 - tuy cùng thế hệ với ông, nhưng tất cả đều là nạn nhân của cuộc xâm lăng vũ trang của thực dân đỏ mà tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh và bè lũ kế nghiệp thực hiện, cho nên họ không hề có tội gì với thế hệ trẻ để phải nhờ ông thay mặt xin lỗi. Hơn nữa, nếu viết như ông, rằng cả một thế hệ có sai lầm thì huề cả làng. Đây là kiểu xin lỗi rất quái chiêu, không biết phải nói như thế nào.

Cái lối tư duy đó của ông đã khiến ông không thấy rằng chính thế hệ trẻ hiện nay đang mang món nợ to lớn đối với thế hệ đàn anh, đã và đang chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân cả xanh, cả đỏ, cả lũ cộng sản Việt gian bán nước là tập đoàn Hồ chí Minh và những tên kế tục hắn cho đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Lê khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nguyễn mạnh Cầm, Nguyễn di Niên, Lê công Phụng v.v. Biết bao nhiêu người đã hy sinh thân mình. Một số rất ít được chôn cất ở các nghĩa trang thì sau tháng 4-1975, chính ông cũng thừa nhận rằng bị tập đoàn cộng sản Việt gian chóp bu cho san bằng mồ mả. Ngay những người đã chết từ lâu, trên mảnh đất của mình, mà bị đối xử như vậy, thì thấy bọn chúng còn tàn bạo hơn cả thực dân xanh (tức Pháp). Vì thực dân Pháp vẫn tôn trọng ngôi mộ của các liệt sỹ VNQDĐ ở Yên Báy, mộ của Đề Thám, của Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh v.v. và ngay cả mộ của bè lũ Nguyễn phong Sắc, Lê Mao. (Xô viết Nghệ tĩnh) cho đến Trần Phú, Hà huy Tập. Và cả mồ bố đẻ của Hồ chí Minh đâu có bị chính quyền miền Nam Việt Nam san bằng. Các thương phế binh của QLVNCH còn ở lại Việt Nam bị đối xử ra sao? Ra đến hải ngoại, các thế hệ đó vẫn tiếp tục phục quốc, đấu tranh cho dân chủ, tự do của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam không ngừng nghỉ. Những Phạm Phú Quốc, Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Long. và bao chiến sỹ vô danh đã ngã xuống trước đây; những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch, vừa qua; những Lý Tống, Nguyễn thị Ngọc Hạnh vẫn còn đang nằm tù vì đấu tranh cho quê hương và dân tộc. Những cuộc xuống đường của hàng 50 ngàn người về California trong vụ tên Việt gian Trần Trường; hàng 25 ngàn người trong kỷ niệm tượng đài chiến sỹ Việt-Mỹ vừa qua v.v. Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm thừa kế thế hệ đàn anh, tiếp tục đấu tranh loại trừ tụi Việt gian cộng sản hiện nay, phải "tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa."(8)

Đúng vậy, nếu không tìm hiểu quá khứ và hiện tại thì sẽ mơ hồ mà hành động như kiểu nhóm trí thức trẻ ở Toronto, dâng hương tưởng niệm, đọc văn tế trung tướng cộng sản Trần Độ; hoặc như "giáo sư, nhà bình luận chính trị" Nguyên Khả Phạm thanh Chương, mạt sát những người không tưởng niệm Trần Độ là "những cái đầu con tôm", nhưng khi được ông Đại Dương lịch sự chỉ dẫn cho bệnh táo bón thông tin, dư thừa ngôn ngữ Cầu Ông Lãnh thì Nguyên Khả "lặn" mất tăm, không dám trả lời đúng hay sai (dù bằng loại ngôn ngữ nào cũng được).

Ông chỉ có thể thay mặt cho thế hệ của ông đã và đang còn nằm trong bộ máy đàn áp của tập đoàn Việt gian cộng sản để xin lỗi thế hệ trẻ về những sai lầm tàn bạo, đẫm máu gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Xin thành thật ghi nhận thiện chí của ông, nếu ông làm được điều đó.

Nhưng, xin lỗi chưa đủ, mà phải giúp cho thế hệ trẻ những thông tin trung thực, những kinh nghiệm máu và nước mắt của bản thân để họ dễ dàng "hiểu quá khứ và hiện tại" ít nhất cũng phải tương đối chính xác, làm cơ sở để "lý giải minh bạch mọi vấn đề".

Đặc tính của tập đoàn Việt gian cộng sản là "vừa đánh trống vừa ăn cướp", là "ký sinh trùng" của xã hội, là "nói một đằng làm một nẻo".

Hai cuốn sách của ông đã phơi bày mọi chính sách, mọi chủ trương của tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế hắn, hoàn toàn do Nga-xô hoặc Tàu cộng chỉ đạo, sai khiến. Cung cách của chúng trước Nga-xô và Tàu cộng hoàn toàn là của lũ đày tớ vừa hèn hạ vừa trung thành mù quáng.

Những dẫn chứng cụ thể và sự mô tả của ông rất rõ ràng. Đúng ra phải kết luận rằng đấy là cốt cách Việt gian! Tiếc rằng ông, tuy biết hổ thẹn về "cấp lãnh đạo" đó của ông, nhưng chưa đủ can đảm để căm thù chúng, mà lầm lẫn kết luận sai và trút căm thù sai chỗ khi ông viết: "Cái duyên nợ nặng nề nhất với Việt Nam thì phải nói đến Stalin và Mao trạch Đông. Hai nhân vật này đã mang đến Việt Nam những cơn bão cấp 10, những cơn động đất đến 10 độ, làm điêu đứng từng gia đình, từng con người ở Việt Nam"! Tất nhiên là thông qua "thiện chí mù quáng" của đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả bi kịch là ở đó."(9) Và, ông gọi Stalin là: "tên khát máu man rợ nhất, một con thú dữ lộng hành suốt hơn 30 năm cầm quyền, một kẻ gây tai họa cực lớn cho xã hội, nhân dân Liên-xô và thế giới" (10) Ông viết tiếp: "Stalin đã tạo ra những tên đồ tể dưới trướng hắn như Béria." (11)

Về Mao, ông viết: "từ 1950 đến tận 1978, sách ông Mao tràn ngập các cửa hàng bán sách Nhân dân và các tủ sách công cộng: trong thư viện Quốc gia Hà-nội, sách của Mao được xếp vào loại kinh điển cơ bản nhất. Thư viện các cơ quan cho đế tủ sách các khu phố, trường học, xí nghiệp đều tràn đầy sách của Mao. Sự sùng bái mù quáng Mao đạt đỉnh cao nhất vào tháng 12-1951, tại Đại hội Đảng lần thứ 2 họp trên căn cứ Việt Bắc, trăm phần trăm đại biểu giơ tay thông qua điều lệ mới của đảng ghi rõ trên giấy trắng mực đen: Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Engels - Lênin - Stalin và tư tưởng Mao trạch Đông làm nền tảng. Mặt trời chói lọi ấy chỉ ít lâu sau đã chiếu rọi khắp đồng quê miền Bắc, với những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp "địa chủ" (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau."(12) Và, ông khẳng định ai là chủ ở miền Bắc Việt Nam khi ấy, khi hạ bút viết: "Những phái viên kiệt xuất của Mao chủ tịch "là những ông chủ thực sự của cải cách ruộng đất mà mỗi lời phán, gợi ý, đề xuất được coi là mệnh lệnh, là chỉ lệnh của Mao chủ tịch vĩ đại!" (13) Đoạn văn trên của ông minh chứng Hồ và đảng của hắn là Việt gian! Tiếc rằng ông chỉ dám giải thích cái hiện tượng đó là do: "Sùng bái" mặt trời phương Đông, nể sợ thiên triều Bắc Kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ".(14)

Tất cả những trích dẫn trên đều do ông tự nguyện viết ra, ấy thế mà do chỗ đứng của ông, nên ông lại rất mâu thuẫn khi cố bào chữa cho Hồ rằng: "ở phía những người quốc gia cực đoan nhất thì sự đánh giá ông Hồ là hoàn toàn tiêu cực"!!!(?)(15)

Để rồi ông lại chán nản thốt ra rằng: "Trong các giáo trình lịch sử được dạy ở các trường hiện nay (tức trường của cộng sản), nhiều sự kiện, nhân vật cũng bị xuyên tạc. Các giáo trình ấy cho rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, đã tan rã hoàn toàn. Các tổ chức VNQDĐ sau đó rồi Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân cũng như Cách mạng Đồng Minh Hội đều bị coi là những tổ chức phản động, những tổ chức tay sai của Quốc Dân Đảng Trung quốc, tay sai của thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ; nói tóm lại những tổ chức ấy đều là những tổ chức "Việt gian", là kẻ thù của dân tộc".(16)

Những tổ chức nói trên mà ông ghi nhận rằng bị tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế coi là "Việt gian", lại còn qua giáo trình lịch sử để nhồi nhét vào đầu các thế hệ trẻ sự "xuyên tạc" ấy, chắc chắn không hề có chủ trương, chính sách, thái độ vâng dạ như Hồ và cái đảng cộng sản của hắn trước mẫu quốc Nga-xô và Tàu cộng để sát hại nhân dân Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Bởi vì chính Hồ, trong cuộc gặp gỡ Lăng Kỳ Hán và Hồng Chi Hằng trong phái bộ của Trung hoa dân quốc, giữa năm 1946, đã trịnh trọng khẳng định rằng: "ở Việt Nam bất kỳ đảng phái nào cũng nhất trí đòi hỏi độc lập".(17)

Đấy là một sự thật. Nhưng là sự thật chưa đầy đủ, vì đảng nào cũng mưu cầu độc lập cho Việt Nam, chỉ riêng đảng cộng sản Đông dương là trước khi ra đời (1930), sau khi ra đời cho đến nay đều tìm cách triệt hạ các đảng phái, các cá nhân không chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành chư hầu của đế quốc đỏ Nga-Tàu.

Trần ích Tắc bị đi theo quân Nguyên vào Việt Nam (chắc vì ươn hèn và tham vọng). Những Hoàng cao Khải, Lê Hoan, chắc chắn tội ác không bằng một phần tỷ của Hồ. Khi Hồ còn sống đã dâng biển dâng đất cho Tàu cộng. Bọn thừa kế Hồ là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh lại vừa tiếp tục dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng và v.v.

Những kẻ nói trên bị lịch sử kết tội là Việt gian thì Hồ và lũ thừa kế của hắn phải là đại, đại Việt gian.

Dù ông cố tìm cách phủ nhận, nhưng sự mô tả của ông về Hồ và bè lũ qua hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" đã chứng minh hùng hồn và cụ thể rằng chúng, tức Hồ chí Minh và đảng cộng sản của hắn là lũ Việt gian bán nước.


Phần 2-Những Tên Đặc Công Đỏ -Việt Thường- Nam Nhân-Lý Tuấn





Những tên đặc công đỏ

trong phong trào

đòi dân chủ cho Việt Nam


Việt Thường – Nam Nhân – Lý Tuấn

Bài 2

Ai là ngụy quân?


Thưa ông Bùi Tín,


Ông cũng đã sai lầm khi viết rằng quân đội là do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo". Sự thật là cộng sản tận cuối tháng 12-1944 mới cho ra đời được một trung đội vũ trang, do Hoàng quốc Việt làm lễ trao cờ ở Tân Trào. Nhìn tấm ảnh chụp thì thấy có chừng ba chục mống là cùng, với Võ nguyên Giáp làm trung đội trưởng. Trong hồi ký của trung tá Nguyễn văn Rạng, một trong số người của cái trung đội ấy, có kể là được học tập "điều lệ của Việt Minh" mà thôi.

Về Việt Minh (cả tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh hội) ra đời từ 1936, do cụ Hồ học Lãm, một người Việt Nam yêu nước, lập ra ở bên Tàu, nhằm tập hợp mọi cá nhân có chung mục tiêu giành độc lập cho Việt Nam, có thể có đường lối khác nhau, nhưng cùng sinh hoạt trong tổ chức này để được chính phủ Tưởng giới Thạch khi đó cấp kinh phí cho hoạt động. Tổ chức ra đời, có ký danh với trung ương Quốc dân đảng của Tàu. Khi Hồ chí Minh bị tướng Trương phát Khuê bắt bỏ tù vì nghi là hoạt động cho cộng sản, Hồ năn nỉ để được các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải Thần, nhân danh Việt Minh, bảo lãnh cho ra tù. Hồ xin gia nhập Việt Minh và xin được về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Chính nhờ cái "lốt Việt Minh" che đậy bộ mặt dra-cu-la cộng sản mà Hồ đã đánh lừa được nhóm thanh niên gồm hơn 40 người do tổ chức Việt Cách của cụ Nguyễn hải Thần móc nối qua Tàu và được Trương trung Phụng huấn luyện về quân sự. Cái nhóm đó chính là bọn Chu văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần Sâm, Hồng Kỳ sau này, tưởng Hồ là Việt Minh thứ thiệt nên chịu để Hồ giảng dạy về "Điều lệ của Việt Minh", và họ quay về nước hoạt động phát triển Việt Minh.

Cho nên Việt Minh thật ra không phải là tổ chức của cộng sản. Điều lệ của Việt Minh không khát máu, nói chung, như cộng sản, nên nó có hiệu quả hơn khi vận động quần chúng tham gia.

Đội lốt Việt Minh, Hồ đã cướp không được hơn bốn chục cán bộ khung và dễ dàng mở rộng địa bàn ở biên giới. Vì thế, Hồ đã liên lạc với Trường Chinh, Hoàng quốc Việt để họp ở Cao bằng (1941) đưa ra âm mưu mượn danh Việt Minh hoạt động cho cộng sản. Sau này chúng trân tráo rằng Việt Minh là do chúng nặn ra!!!

Nhờ trong lốt Việt Minh, bọn Hồ đã dựng ra được cái gọi là "cách mạng tháng tám 1945". Và, để chắc ăn hơn, Hồ cho giải tán đảng cộng sản Đông dương.

Nếu cộng sản có "uy tín trong dân" thì tại sao bọn cộng sản lại tuyên bố giải tán đảng của chúng? Và, còn ma mãnh hơn nữa, trong thư gửi tướng Trần tu Hòa (18), đề ngày 19-12-1945, Hồ khẳng định: "Việt Minh không phải là một đảng chính trị", mà có nhiều thành phần tham gia.

Có thể ông (và một số người khác) sẽ hỏi: tại sao Hồ lại nắm được chính quyền?

Đúng là Hồ đã nắm được chính quyền, không phải do đảng cộng sản của Hồ được dân tín nhiệm, không phải các đảng phái không cộng sản yếu kém, như sau này các bồi bút cộng sản xuyên tạc sự thật lịch sử.

Đảng cộng sản Đông dương của Hồ có được dân Việt Nam tín nhiệm không, thì chỉ nguyên cái việc vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng như vậy mà chúng phải tự giải tán đảng cũng đã là một câu trả lời rõ ràng nhất rồi. Có điều là các đảng phái không cộng sản; các nhân sỹ, trí thức yêu nước; các phong trào quần chúng tự phát; các tổ chức tôn giáo; cho đến cả Hoàng đế Bảo Đại, chính phủ Trần Trọng Kim v.v… đều chỉ biết vui mừng thấy sau khi Nhật đảo chính Pháp thì đến lượt Nhật đầu hàng đồng minh (15-8-1945), nằm yên chờ giải giới. Mọi người đều náo nức thấy sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nền độc lập của đất nước đã lấp ló như rạng đông nên mất cảnh giác dễ dàng để Hồ lừa. Mọi người, mọi tổ chức (trừ Hồ và bọn chóp bu của đảng cộng sản Đông dương) đều đấu tranh cho mục tiêu của độc lập, không có tham vọng thống trị như Hồ và bè lũ cộng sản, vì thế Hồ đã lừa đảo tất cả để cố "cướp lấy chính quyền", là cái mục tiêu chủ yếu mà thực dân đỏ Nga-xô giao nhiệm vụ cho hắn khi thành lập đảng cộng sản Đông dương từ 1930. Cho nên khi ấy chẳng ai nghĩ đến "cướp chính quyền" trong tay chính phủ Trần Trọng Kim của Hoàng đế Bảo Đại, loại trừ Hồ và bè lũ là có âm mưu đó. Chúng dựa hơi vào các cuộc tuần hành tự phát của quần chúng và của các đảng phái không cộng sản, biến cuộc biểu dương lực lượng lập lờ thành sức ép của quần chúng, và qua tên Tôn quang Phiệt, móc nối với thư ký riêng của Hoàng đế Bảo Đại là Phạm khắc Hòe, để tên này báo cáo láo với Hoàng đế Bảo Đại, khiến Ngài vốn không thích cầm quyền nên đã sẵn sàng thoái vị, trao quyền lại cho toàn dân. Lòng lương thiện cả tin của từ Hoàng đế Bảo Đại cho đến cụ Trần Trọng Kim và các nhân sỹ, trí thức yêu nước đã dễ dàng bị mắc quả lừa của tụi cộng sản.

Thành công bằng sự "tháu cáy" đó nên Hồ sợ phản ứng của nhân dân. Hắn vội vàng mời hoàng đế Bảo Đại làm cố vấn tối cao, cho Phạm khắc Hòe (thư ký của Bảo Đại) làm đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ; mời hầu hết các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim tham gia chính phủ; mời các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, các quan lại cũ như thượng thư Bùi bằng Đoàn (cụ thân sinh của ông Bùi Tín); khâm sai đại thần Phan kế Toại; tổng đốc Hồ đắc Điềm; các tri phủ Tạ quang Đạm, Dương văn Đàm v.v., dùng Vũ đình Huỳnh, một người gia đình họ hàng là công giáo toàn tòng làm trong ban thư ký, để yên lòng giáo dân và từ đó đi Phát Diệm gặp Đức Cha Lê Hữu Từ mời vào ban cố vấn. Hồ còn đề nghị cấp tiền nuôi dưỡng cho các bà vợ của các vua Thành Thái và Duy Tân; cho in tem chân dung của Nam Phương hoàng hậu. Hồ còn đến Văn miếu dâng hương đức Khổng tử; dự giỗ tổ Hùng Vương, làm kỷ niệm ngày mất của Phan chu Trinh và đề nghị hoãn lệnh của chính phủ Trần Trọng Kim triệt hồi và truy tố các tham quan (19), xin được hợp tác với các đảng phái không cộng sản, và tuyên bố giải tán đảng cộng sản Đông dương.

Thủ đoạn lưu manh chính trị đó đã giúp Hồ được mọi người coi như là một "nhà nho yêu nước", nhất là Hồ cho loan tin rằng Hồ là con một phó bảng, một người đã từng được chung sống với cụ Phan chu Trinh ở Paris (Pháp). Và được cụ Phan dạy cho nghề ảnh. Cùng lúc Hồ cho tung tin Hồ giống như công tử Trùng Nhĩ (tức Tấn văn Công trong Đông Chu liệt quốc). Cho nên phần lớn không coi Hồ là cộng sản và sẵn sàng vì việc chung của đất nước mà hợp tác với Hồ.

Cho nên cái gọi là "cách mạng tháng tám" không có đổ máu. Đó là một sự chuyển tiếp hòa bình quyền lực cho toàn dân mà tụi lưu manh cộng sản đội lốt Việt Minh giành phần, bịa đặt "cướp công" thành "cướp chính quyền"; bịa chuyện đánh Nhật, đuổi Pháp mà trên thực tế Pháp đã bị Nhật lật đổ và đến lượt Nhật bị đồng minh bắt hàng không điều kiện. Chỉ đến khi nhận được ấn, kiếm của Hoàng đế Bảo Đại trao cho, tụi cộng sản mới hơi lòi bộ mặt lưu manh trộm cắp. Đó là việc tên Trần huy Liệu cho giết Phạm Quỳnh và con là Phạm Giao và Trần huy Liệu còn cưỡng ép vợ Phạm Giao làm vợ lẽ của hắn. Hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Giao không liên quan gì đến chính phủ Trần Trọng Kim.

Việt Nam, chính phủ Trần Trọng Kim có thể tạm ví như chính phủ dân chủ Kêrenski ở Nga tháng 2-1917. Và Hồ đã áp dụng kiểu như Lê-nin với Kêrenski. Có điều bọn cộng sản Hồ chí Minh không được quần chúng đông đảo hậu thuẫn, tổ chức mỏng và lực lượng vũ trang có mỗi trung đội của Võ nguyên Giáp và Chu văn Tấn, vì thế Hồ phải giải tán đảng cộng sản Đông dương và chui đầu núp vào danh tiếng của Hoàng đế Bảo Đại, của các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim, của các đảng phái không cộng sản, của các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, của các vị lãnh đạo tinh thần có uy tín, nhằm tạm thời che đậy bộ mặt Việt gian, tay sai của thực dân đỏ Nga-xô.

Nếu không kịp thời giải tán đảng cộng sản Đông dương và lờ đi cái tên Nguyễn ái Quốc, chắc chắn toàn dân Việt Nam sẽ không mơ hồ để phải chịu đựng quãng thời gian làm nô lệ cho thực dân đỏ gần dài bằng nô lệ cho thực dân Pháp (tính cho đến nay).

Mặc dù đa số đang ngây ngất men chiến thắng vì Pháp đổ, Nhật đầu hàng Đồng minh, được tự do đi lại ăn nói hội họp nên mơ hồ, nhưng vẫn không ít người sáng suốt nhìn được rõ con quỷ đỏ dra-cu-la Hồ chí Minh, như Trương tử Anh của Đại Việt, như Lý Đông A, như Khái Hưng, như Ngô đình Diệm v.v. và sau vụ này là Đức Cha Lê hữu Từ, cụ Trần Trọng Kim và cả cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức cựu Hoàng Bảo Đại). Vì thế Hồ đã cho mật lệnh thủ tiêu những người yêu nước không là cộng sản, kể cả những nhân vật trotskít như Tạ thu Thâu, Phan văn Hùm cũng như vu khống, bôi nhọ uy tín của các đảng phái không cộng sản và lãnh tụ của các đảng phái đó.

Khi đã nắm được chức chủ tịch của Chính phủ Liên hiệp, một trong những mối lo hàng đầu của Hồ là phải nắm lực lượng vũ trang. Để tránh lộ liễu, Hồ để những nhân vật không đảng phái hoặc đảng phái khác nắm bộ quốc phòng, cụ thể là cụ Vũ hồng Khanh làm bộ trưởng, thế là VNQDĐ của cụ Vũ hồng Khanh há miệng mắc quai khi Hồ cử các nhà quân sự của VNQDĐ vào Nam, như tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v… Rồi Hồ lấy cớ cần người có uy tín đi ký Hiệp định Sơ bộ 9-3 ở Đà-lạt, để cử cụ Vũ hồng Khanh đi, nghĩa là lột chức đầy quyền lực của Vũ hồng Khanh. Và Hồ đề cử luật sư Phan Anh, một người không đảng phái, từng là bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim, giữ ghế Bộ trưởng Quốc phòng. Như vậy làm sao ai dám ngờ dã tâm của Hồ. Tiếp theo, Hồ cho lập Quân ủy hội song song với Bộ quốc phòng, và cử Võ nguyên Giáp làm chủ tịch Quân ủy hội, và cụ Vũ hồng Khanh, ký hiệp định Sơ bộ 9-3 về, làm phó chủ tịch Quân ủy hội. (20)

Ngày 22-5-1946, Hồ ký sắc lệnh số 71 về việc tổ chức quân đội (hợp nhất của các đảng phái, kể cả bảo an binh của chính phủ tiền nhiệm Trần Trọng Kim) và gọi là Quân đội Quốc gia. (21)

Thời gian đó ở phía Bắc, quân Tàu Tưởng, vào giải giới quân Nhật, gây nhiều chuyện nhố nhăng, quân Pháp lăm le quay trở lại. Còn phía Nam thì lính Pháp theo chân quân đội Anh vào giải giới quân Nhật bắt đầu gây chiến. Cả nước khí thế như núi lửa, thanh niên nam nữ ai cũng muốn gia nhập lực lượng vũ trang. Những nhà giàu bỏ tiền thành lập quân đội, như bà Cát thành Long chẳng hạn, đã nuôi hàng trung đoàn quân và cả hai con trai cùng gia nhập quân đội. Dựa vào khí thế đó, Hồ đã đội lốt Chính phủ Liên hiệp kêu gọi thanh niên nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Các trường quân chính được mọc lên.

Ngày 26-5-1946, Hồ cùng bộ trưởng quốc phòng là luật sư Phan Anh, chủ tịch quân ủy hội là Võ nguyên Giáp lên Sơn-tây dự lễ khai giảng lớp võ bị Trần Quốc Tuấn. Giám đốc trường là huynh trưởng hướng đạo sinh Hoàng đạo Thúy (không đảng phái) thay mặt trường nhận cờ Hồ tặng, có thêu tôn chỉ của quân đội quốc gia là: "Trung với nước, hiếu với dân". (22)


Thưa ông Bùi Tín,


Những điều chúng tôi nêu trên là trích dẫn từ sách, báo, hồi ký, tư liệu lưu trữ của cộng sản. Điều đó đã chứng minh rằng cộng sản không phải là kẻ tổ chức và lãnh đạo quân đội.

Vì lòng yêu nước, các đảng phái, các cá nhân không cộng sản đã hòa giải, hòa hợp với nhau và với cả Hồ để cho ra đời Chính phủ Liên hiệp. Cái Chính phủ Liên hiệp đó mới là cha đẻ ra quân đội hợp nhất của các đảng phái, của bảo an binh và mang tên QUÂN ĐỘI QUỐC GIA. Quân đội đó ra đời để bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, với tôn chỉ: TRUNG VớI NUớC, HIẾU VớI DÂN.

Từ 1930, theo lệnh thực dân đỏ Nga-xô, Hồ đã thành lập đảng cộng sản Đông dương làm công cụ bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ ra toàn cõi Đông dương.

Hồ không phải như Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn văn Linh, chỉ loanh quanh trong 3 miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam, không phải như me-xừ hoạn lợn (mà ông sáng tác thành thợ chữa khóa dạo) là Đỗ Mười, chỉ loanh quanh mấy chợ quê để thiến heo, hay như Lê khả Phiêu, cao nhất là tới đất Căm-bốt lúc đã bị tụi cộng sản thân Tàu tàn phá, mà Hồ từng sống trên khắp các nước Pháp, Anh, Mỹ, Tàu, Thái lan, Nga-xô. Nghĩa là Hồ không chỉ nghe nói mà là đã nếm, đã thử, đã sống trong một loạt xã hội có chế độ chính trị khác nhau. Nghĩa là Hồ có điều kiện thực tế để so sánh cái hơn cái kém của các thể chế chính trị đó. Hồ đã chứng kiến những vụ thanh trừng nội bộ, tàn sát nhân dân, âm mưu bành trướng bá quyền của Stalin. Và, chắc chắn Hồ phải hiểu rõ mục đích thành lập đảng cộng sản Đông dương để làm gì, lợi cho ai, hại cho ai?

Chính vì thế Hồ mới bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp mới phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học; mới giết, bôi nhọ những người yêu nước v.v… Cho nên Hồ đã cố tình xóa bỏ công lao của Chính phủ Trần Trọng Kim đã thổi bùng trở lại tinh thần yêu nước của nhân dân trên toàn cõi Việt Nam; đã tạo ra tiền đề cho sự hòa giải, hòa hợp của toàn dân Việt Nam, để cuối cùng Hồ là kẻ thủ lợi.

Sau khi Tàu cộng làm chủ lục địa, Hồ cho quân đội quốc gia luân phiên qua Tàu để tẩy não, để ồ ạt kết nạp vào cộng sản. Và cuối cùng thì như ông đã viết trong sách của ông rằng: "Đảng lãnh đạo thường xuyên, liên tục, toàn diện và tuyệt đối quân đội ta"(23).

Kể từ khi hoàn toàn làm chủ được quân đội quốc gia, Hồ đã đánh tráo cái tên quân đội quốc gia thành quân đội nhân dân hoặc "bộ đội cụ Hồ"! Và cái tôn chỉ ban đầu của Quân đội Quốc gia là "Trung với nước, hiếu với dân" bị biến chất thoái hóa thành "trung với đảng, hiếu với dân"; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Cuối năm 1951, đảng cộng sản Đông dương, từng giả vờ tự giải tán để hoàn thành việc lừa đảo toàn dân Việt Nam, lộ diện trở lại với cái tên hiền lành và mơ hồ hơn gọi là "đảng Lao động Việt Nam". Kể từ đó, mọi chính sách của Hồ đều nhằm vô hiệu hóa sự hoạt động của Quốc hội khóa 1 (của nhiều đảng phái không cộng sản), tiến tới âm thầm đảo chính Chính phủ Liên hiệp. Gọi là đảo chính âm thầm, vì Hồ chỉ cốt tước thực quyền của thành viên chính phủ không là cộng sản, lưu giữ họ lại làm bù nhìn nhằm lèo lái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp thành cuộc chiến của thực dân đỏ nhằm giành giật 3 nước Đông dương trong tay thực dân Pháp.

Tuy đã nắm trọn quyền về lực lượng vũ trang, nhưng Hồ còn muốn lực lượng vũ trang phải hoàn toàn trung thành mù quáng đối với Hồ. Vì thế hắn đã sai Lê văn Lương, trưởng ban tổ chức trung ương, ký quyết định về "chế độ ngày sinh hoạt đảng trong quân đội" vào ngày 15-3-1954. (24)

Và biện pháp chủ yếu Hồ dùng để làm đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp là "giảm tô và cải cách ruộng đất" và "chấn chỉnh tổ chức".

Để che giấu âm mưu đen tối nói trên, trong phiên họp ngày 15-3-1954 của hội đồng chính phủ, Hồ đề nghị thông qua điều lệ tổ chức ủy ban cải cách ruộng đất trung ương và danh sách các ủy viên của ủy ban này.

Âm mưu đó bộc lộ trắng trợn trong "Thông tri của ban bí thư"(25) do Lê văn Lương ký ngày 22-5-1954, gửi các Liên khu ủy Việt Bắc, III, IV, khu ủy Tây Bắc và các Đoàn ủy cải cách ruộng đất và giảm tô. Trong thông tri có những đoạn đáng chú ý như:

"Ban thường trực ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương phụ trách giải quyết công việc hàng ngày gồm một số đồng chí trung ương (tức cộng sản). Như vậy rất tiện cho Trung ương dùng danh nghĩa công khai để chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất."

"Phải coi những chỉ thị, thông tri ấy như của trung ương Đảng và phải chấp hành nghiêm chỉnh."

"Những vấn đề thuộc về nội bộ Đảng hoặc cần giữ bí mật không tiện dùng danh nghĩa công khai, Trung ương (tức cộng sản) sẽ gửi cho các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy, và các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy cũng báo cáo trực tiếp lên trung ương (tức cộng sản) những vấn đề thuộc nội bộ đảng."

Cái "cần giữ bí mật" đó là mượn cớ cải cách ruộng đất để thanh lọc tận cơ sở những đảng phái, cá nhân, tổ chức không là cộng sản và cả những đảng viên cộng sản mà Hồ "mở cửa đảng" tổ chức kết nạp ồ ạt. Giờ đây thành phần tổ chức đảng ở cơ sở phải đảm bảo "trung với đảng" như quân đội vậy. Nghĩa là phải trung với Hồ, hay nói cách khác là phải trung với mẫu quốc đỏ Nga-xô.

Kết thúc cái gọi là "rèn cán, chỉnh quân" và thường xuyên thanh lọc qua "Quyết định về chế độ ngày sinh hoạt đảng trong quân đội", được ký ngày 15-3-1954, thì kể từ đó cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là ngụy quân. Nhiệm vụ của ngụy quân cộng sản là hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào mà đảng – tức nhóm lãnh đạo chóp bu – ra lệnh.

Sau cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh thì Việt Nam (phía Bắc sau 1954 và cả nước sau 30-4-1975) thưc tế là thuộc địa đỏ, bị cai trị bởi tụi cộng sản là tổ chức Việt gian, tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu.

Dám nhìn vào sự thật mới có thể lý giải được vì sao các chính sách của cộng sản đề ra đều chống lại quyền lợi của nhân dân và đất nước Việt Nam, từ khi Hồ còn sống cho đến tất cả lũ thừa kế Hồ là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và nay là Nông đức Mạnh. Dám nhìn vào sự thật này mới hiểu tại sao cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam lại có thể pháo kích vào trường học, chợ búa, nhà thờ, đền chùa, giết dân như vụ tàn sát gần 2 vạn người Mèo ở hai huyện Phó Bảng và Mèo Vạc ở Hà-giang; tàn sát giáo dân ở Nghệ-an, Quảng-bình; tàn sát nhân dân ở Huế (1968); xâm lược miền Nam Việt Nam, trấn áp và tàn sát đồng bào thiểu số ở Tây-nguyên; sau 30-4-1975 đã tàn phá các thành thị ở miền Nam khiến trong cuốn "Mặt thật" ông đã phải viết rằng: "xử sự như những đội quân chiếm đóng".


Thưa ông Bùi Tín,


Ông đã tiệm cận với sự thật. Chúng "xử sự như những đội quân chiếm đóng" là vì cái sự thật rành rành mà ông chưa muốn thấy. Đó là:

Cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là ngụy quân, công cụ của tập đoàn Việt gian cộng sản Việt Nam, tay sai của đế quốc đỏ Nga-Tàu.

Phần 3-Những Tên Đặc Công Đỏ Việt Thường- Nam Nhân- Lý Tuấn




Những tên đặc công đỏ

trong phong trào

đòi dân chủ cho Việt nam

Việt Thường – Nam Nhân – Lý Tuấn

Bài 3

Hòa giải và hòa hợp


Trong cuốn "Mặt thật", ông đã để nhiều trang nói về "hòa giải hòa hợp". Cũng từ chỗ đứng đặc biệt của ông, nên về vấn đề này ông đã nhận xét và lý giải xa với thực tế và mâu thuẫn với chính ông nữa.


Ông đã viết: "Trong cộng đồng người Việt, cũng có ý kiến cực đoan cho rằng đối với cộng sản, không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền (rút lui như thế nào và giao quyền ra sao thì có người không phát biểu rõ được) vì họ là kẻ có tội, phá hại đất nước. Đây là lối nhìn trịch thượng, không thực tế. Còn cần tạo nên nhiều sức ép trong và ngoài nước mạnh mẽ mới có thể ép những người lãnh đạo Đảng Cộng sản chấp nhận bầu cử dân chủ thực sự theo quan điểm đa nguyên.

Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, những người có cách nghĩ cực đoan không nhiều, số này lại giảm đi rõ rệt". (26)

Khi viết những giòng trên, chúng tôi nhận thấy ngòi bút của ông lại quay về lối mòn của Phó tổng biên tập báo Nhân dân, nghĩa là người nghĩ, nói và viết đúng với lập trường của tập đoàn đầu lãnh Việt gian cộng sản.

Không cần trích dẫn những tài liệu khác, chỉ cần dựa vào những điều ông đã viết trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", đủ chứng minh tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh và cái đảng của chúng đã gây bao tội ác và phá hoại đất nước Việt Nam như thế nào. Thế mà ý kiến không chấp nhận chúng, buộc chúng phải rút lui lại bị ông khép cho tội trịch thượng! Trong con mắt của ông thì lũ bán đất, bán biển cho Tàu cộng; giết dân lành; đàn áp tôn giáo; bỏ tù, giết hại những người nói lên chút sự thật, là thượng. Vậy người dân là hạ chăng? Nên không có quyền lật đổ thượng?

Khi ông cầm bút viết hai tiếng "trịch thượng" thì tự thân hành động đó đồng nghĩa với việc tán thành điều 4 trong Hiến pháp 1992 của cộng sản, giành cho chúng độc quyền là chủ của nhân dân và đất nước Việt Nam, không ai được quyền buộc chúng rút lui. Hành động đó bị ông xếp là "cực đoan", là "trịch thượng". Chữ nghĩa này từ mồm cái loại ít học "bò tót" như Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Lê đức Anh, Chu huy Mân và ngay cả Trần Độ v.v… còn có thể hiểu được. Còn ở miệng ông Bùi Tín, đang kêu gọi "hòa giải hòa hợp", xây dựng dân chủ đa nguyên, thì quả thực chúng tôi không thể hiểu nổi!!!

Thật "đại mâu thuẫn với bản thân", khi ngòi bút của ông trong "Hoa xuyên tuyết" đã viết rằng: "Mà lãnh đạo thì rất sợ đổi mới về chính trị, họ sẻ mất quyền, cả quyền lãnh đạo và quyền lợi riêng. Đất nước bất hạnh chính là vì thế - "Thế cùng tất biến", nhiều người nói như vậy. Vì đó là quy luật. Nhưng lại là quy luật xã hội. Cứ chờ thì không ổn, biết bao giờ mới thay đổi! Phải có sự thức tỉnh, có ý chí, có hành động của con người! Nếu không sức ỳ sẽ lì lợm tồn tại."(27)

Rồi ông viết tiếp: "Tôi không mong chờ gì ở sự tỉnh ngộ, thức thời của những người lãnh đạo. Họ đã khác xưa quá nhiều rồi! Có hai đức tính cần thiết nhất cho người lãnh đạo thì ở họ quá nghèo nàn. Đó là đức tính biết lắng nghe, tiếp nhận những điều hay, lẽ phải, và đức tính biết thích ứng chủ động với những biến chuyển đi lên của thế giới này."(28)

Khi viết những đoạn văn ở trên, rõ ràng ông thấy, đối với tụi lãnh đạo cộng sản Việt Nam đương quyền, không thể nói lý lẽ được, mà chỉ có cách lật đổ - tức buộc chúng rút lui - đúng như quan điểm của những người Việt ở nước ngoài mà ông chụp cho cái mũ "cực đoan".

Ông còn đi xa hơn nữa khi coi chính sách "hòa giải và hòa hợp" là vô hiệu, như ông đã viết: "Ngay cả những lực lượng ở ngoài nước, có tinh thần dân tộc và dân chủ, đề xướng hoặc tán thành hòa giải và hòa hợp cũng hầu như không có tác dụng gì đối với trong nước.”(29)

Thật là: "Mâu thuẫn! Mâu thuẫn! Đại mâu thuẫn!!!" Nhưng điều đó đã phản ánh đúng cái thế éo le của ông: Một nhà báo thức thời trong con người cộng sản có quyền và vẫn còn hám quyền và hám danh!

Thưa ông Bùi Tín,


Sau khi ký được cái hiệp định Paris 1973 về Việt Nam thì trên thực tế quân Mỹ không còn ở miền Nam Việt Nam nữa. Trong khi đó, tại Bắc Việt Nam, vẫn còn cố vấn Nga-xô, Tàu cộng, núp dưới cái tên chuyên gia nước bạn; vũ khí Nga-xô - Tàu cộng vẫn tiếp tục được đưa vào cả qua ngã phía Bắc (tức qua cửa Nam quan) lẫn phía Nam, qua cảng Kôm-pông-cham của Căm-bốt. Từ xe tăng hiện đại T54 đến tên lửa Sam; từ xăng dầu, xe vận tải các loại cho đến các loại thuốc men, lương khô; hệ thống truyền tin hiện đại cho đến quân phục, quân trang. Và không chỉ binh lính cộng sản ở phía Bắc ngang nhiên ào ào tràn vào Nam công khai, mà còn đủ loại cán bộ từ Bắc đưa vào như công an, báo chí, văn nghệ sỹ, y tế, các đoàn văn công và các đoàn chiếu phim lưu động v.v.

Cho nên những mẫu chuyện về việc Nga-Tàu đều không muốn Hà-nội xâm lược Việt Nam Cộng Hòa chỉ là chuyện bá láp ở quán cà-phê vĩa hè mà thôi. Còn trên thực tế, nếu không muốn thì chỉ cần ngưng một vài thứ như dầu xăng và quân trang cùng thuốc men thì quân cộng sản Hà-nội không lẽ học cách của Quang Trung, 3 anh cáng lẫn nhau, và cởi truồng, ngậm viên "xuyên tâm liên" mà Nam tiến được chăng?

Như thế là, trên thực tế, sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam, cuộc chiến tiếp diễn đã lột mặt nạ "chống Mỹ cứu nước" của cộng sản Hà-nội, phơi bày rõ bộ mặt Việt gian, tay sai của Nga-Tàu, xâm lược nước Việt Nam Cộng Hòa. Điều đó không phải là mới mẻ, mà nó nằm trong lộ trình của đế quốc đỏ Nga-Tàu từ khi giao cho Hồ chí Minh nặn ra cái tổ chức Việt gian, mang tên đảng cộng sản Đông dương từ 1930!

Nếu có một lúc nào đó Tàu cộng không hài lòng với lũ tay sai cộng sản Việt Nam, thì đó chỉ là mâu thuẫn của hai tên đế quốc đỏ Nga-Tàu mà thôi. Vì thế nên, Tàu cộng đã chuẩn bị sẵn đầy tớ thay thế. Đó là tụi Khơ-me đỏ.

Thực ra Khơ-me đỏ làm cái việc gọi là "diệt chủng", chủ yếu là, theo lệnh quan thầy Tàu cộng để thanh lọc hết tụi thân cộng sản Hà-nội; tụi do cộng sản Hà-nội nuôi cấy từ 1930, nhất là trong giai đoạn mượn đất Mỏ Vẹt của Căm-bốt làm thánh địa trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, men say chiến thắng sau 4-1975, bọn cộng sản Hà-nội hiện nguyên hình là tay sai trung thành của mẫu quốc Nga-xô qua "Hiệp ước hòa bình và hữu nghị" với Nga (1978) thì Trung cộng phải ra tay. Và, hai đế quốc đỏ Nga-Tàu qua lũ tay sai Việt gian cộng sản Hà-nội và Miên gian Khơ-me đỏ, đánh chém nhau bằng xương máu của người Việt Nam và người Miên. Tuy nghe phũ phàng, nhưng đó là sự thật trăm phần trăm được bóc trần khỏi mớ lý luận "hàn lâm" nhưng "mơ hồ"!!!

Dám nhìn vào sự thật này thì ông mới lý giải đuợc tại sao những Lê đức Thọ, Chu huy Mân, Lê đức Anh cũng như binh lính cộng sản Việt Nam tự coi mình là ông chủ trên đất Căm-bốt; và ngay đối với nhân dân, quân đội của nước Việt Nam Cộng Hòa cũng bị chúng phân biệt đối xử. Khi cần đánh lừa thì chúng gọi là người Việt Nam với nhau. Khi lừa được rồi thì chúng gọi là ngụy, là phản động.

Cái bẫy "hòa giải và hòa hợp" là do tập đoàn Việt gian cộng sản Hà-nội chế tạo sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Cái bẫy đó được tụi tay sai của chúng nằm vùng ở Việt Nam Cộng Hòa cùng lũ "nón tai bèo thành thị", tức tụi gọi là thành phần thứ ba; cùng lũ trí thức, nhà văn, nhà báo đói thông tin, táo bón kiến thức; cùng lũ Chí Phèo tập tọng làm chính trị rao bán, quảng cáo ầm ĩ để phá hoại tinh thần của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, bị lẫn lộn thực, giả, làm nản lòng chiến sỹ VNCH ngoài chiến trận. Vì thế mới có ngày Quốc hận 30-4-1975!

a. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên mới có chuyện "đóng tiền đi học tập 10 ngày";

b. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên mới mơ hồ tin vào việc "duy trì 5 thành phần kinh tế";

c. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên các nghĩa trang, mồ mả của quân dân, cán, chính mới bị tụi xâm lược cộng sản san bằng, ủi bỏ;

d. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên có nhiều người đã đấu tranh để từ đảo Guam trở về trại cải tạo Gia Trung!

e. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên hầu như chưa có mấy ai nghĩ đến "vượt biên bằng mọi giá";

f. Kết quả của cái "hòa giải - hòa hợp" đó là quân, công, cán, chính của VNCH được đi tù không án, học tập "bóp cứt tươi cho nhuyễn" để tưới rau, như việc làm hàng ngày của trung tướng Huỳnh văn Cao và v.v…; dùng tay không để khai hoang v.v.; vợ con đi lên rừng để chết cho tiện đất chôn; nhà cửa, xe cộ, đồ đạc để lại cho binh lính, cán bộ cộng sản "hòa hợp".

g. Kết quả của cái "hòa giải - hòa hợp" đó là thanh niên, con cái người dân Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi lính đánh thuê cho thực dân đỏ bên Căm-bốt mà chỉ riêng số què quặt theo số liệu của ông cung cấp là 300 ngàn; chưa kể số chết và mất tích, tổng cộng hàng triệu!!!

Sau khi bị lừa vào cái bẫy "hòa giải - hòa hợp" lần thứ nhất đó, không chỉ trên đất nước VNCH, cột đèn nếu có chân cũng muốn vượt biên, mà cả nhân dân ở phía Bắc Việt Nam, trong bàn tay huấn luyện và giáo dục của tập đoàn Hồ chí Minh gần một phần tư thế kỷ, cũng tay không vượt biên bằng mọi giá.

Cái giá đó là trung bình cứ 3 người ra đi thì một người xin làm dân của Neptune. Số đó xấp xỉ nửa triệu. Chưa kể phải chịu đựng hải tặc cướp đoạt, hãm hiếp tập thể và phải ăn thịt lẫn nhau!!!

Xin ông cho biết, trong lịch sử Việt Nam, từ thời Hồng Bàng đến nay, có thời kỳ nào diễn ra cảnh tương tự không?

Cuộc chạy nạn thực dân đỏ của người Việt Nam đã gây súc động trong nhân loại tiến bộ. Cái cộng đồng đó quần tụ lại, vượt bao khó khăn để có sự thành đạt như ngày nay.

Cộng đồng người Việt hải ngoại phải bỏ mồ mả nhà cửa lưu vong vậy mà lũ Việt gian cộng sản Hà-nội, tay sai Nga-xô - Tàu cộng, còn qua mồm tên Phạm văn Đồng, qua hệ thống truyền thông, báo chí, đặc biệt là báo Nhân dân, để chửi cái cộng đồng đó là đĩ điếm, lưu manh, trộm cắp, lười lao động, phản động, Việt gian v.v.

Cho đến khi cái cộng đồng quá lương thiện và tài ba này, hàng chục năm nay, mỗi năm gửi về trên 2 tỷ đô-la (nghĩa là bằng 1/3 tổng sản lượng của Sài-gòn, mà tổng sản lượng của cả Sài-gòn chiếm 60% của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam) thì được cho đi tàu bay giấy là Việt kiều yêu nước, là khúc ruột xa ngàn trùng.

Ôi! Cái lưỡi của tập đoàn Việt gian cộng sản Hà-nội, y hệt cái lưỡi heo của Ê-dốp!!!

Và thế là lũ cộng sản nằm vùng ở hải ngoại; lũ "nón tai bèo mới" lẫn trong cộng đồng; lũ trí thức, viết văn, viết báo mù thông tin; lũ bị bệnh teo gan chủ hàng v.v… bắt đầu thổi kèn, đánh trống, quảng cáo bán lại món hàng "cạm bẫy tồn kho". Đó là luận điệu "hòa giải - hòa hợp."

Xin ông chú ý cho rằng:

- Sự "hòa giải – hòa hợp" giữa nhân dân Nam và Bắc đã có ngay sau 1975. Điều đó chẳng cần ai kêu gọi cả. Đó là sự gắn bó, cảm thông tự nhiên giữa những người đồng cảnh. Vì tất cả đều là dân nô lệ của thực dân đỏ thông qua sự cai trị của tập đoàn Việt gian cộng sản khát máu.

- Cộng đồng người Việt ở hải ngoại và nhân dân Việt Nam ở trong nước cũng chẳng cần ai phải nhắc nhở "hòa giải – hòa hợp" cả. Chứng cớ hùng hồn là hàng năm người Việt ở hải ngoại đã đổ về quốc nội hơn 2 tỷ đô-la mà không kèm một điều kiện nào!!!

Vậy luận điệu mập mờ về "hòa giải - hòa hợp" được đưa ra nhằm vào những nhóm người nào?

- Những người với tư cách tỵ nạn cộng sản để hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại không thể hòa giải - hòa hợp với tập đoàn Việt gian cộng sản, tay sai của đế quốc đỏ Nga - Tàu. Lý do rất đơn giản:

1) Vì chấp nhận "hòa giải – hòa hợp" với chúng nên mới phải lưu vong xứ người. Có lẽ nào còn ngu xuẩn, điên rồ đến mức bước lần thứ hai vào cái cạm bẫy "hòa giải – hòa hợp" đó nữa không? (!!!)

2) Điều 4 hiến pháp 1992 của cộng sản ghi rõ quyền duy nhất làm chủ cả con người, cả đất nước Việt Nam cho tập đoàn Việt gian cộng sản. Vậy có nên ngu như lừa để đâm đầu về "hòa giải – hòa hợp" với quân xâm lược, làm nô lệ cho chúng không? Mà chúng là ai? - Đó là những tên thiến heo Đỗ Mười, có bệnh điên; Lê đức Anh, cai ác ôn đồn điền cao-su của thực dân Pháp; thằng con hoang Nông đức Mạnh, tất cả bọn chúng vẫn lấy "tư tưởng", lấy "đạo đức" của Hồ chí Minh làm khuôn vàng, thước ngọc cho việc trị dân. Mà Hồ là ai? Đó là tên, theo "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", là kẻ răm rắp tuân lệnh quan thầy Stalin, là kẻ sùng bái "mặt trời phương đông", nể sợ "thiên triều" Bắc kinh (30) và hắn đã "truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ."(31)

Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại đã thoát cảnh "chim lồng, cá chậu" nay có đủ tỉnh táo để nghe bọn cò mồi mà "rúc đầu vào lồng, đắm mình trong chậu" để rồi khi bị trấn lột đến đồng USD cuối cùng, sẽ lại tỵ nạn lần nữa chăng?(!!!)

- Liệu cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại có thể "hòa giải – hòa hợp" với những người "cộng sản lương thiện" (chữ nghĩa của ông Bùi Tín) được không?


Thưa ông Bùi Tín,


Trong cuốn "Mặt thật", ông đã viết: "Tầng lớp quan chức đặc quyền đặc lợi ở Việt Nam hình thành dần dần kể từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Trong 30 năm chiến tranh, tầng lớp này đã thành một lớp người riêng biệt, tách dần khỏi cuộc sống và mức sống của toàn xã hội."(32)

Tầng lớp này chính là toàn bộ cái gọi là ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam và các cán bộ trung cao của nó ở mọi ngành. Nghĩa là trong đó có trung tướng cộng sản Trần Độ, ủy viên trung ương đảng cộng từ khóa 3 (1960) đến hết khóa 7 (1991), và cả ông – đại tá cộng sản Bùi Tín.

Và tầng lớp đó, trong cuốn "Mặt thật", ông mô tả: "Sau "đổi mới", từ năm 1986, tầng lớp này đua nhau kiếm chác, tận dụng thị trường tự do, luật pháp còn nhiều sơ hở, dựa vào quyền lực và các mối quan hệ trên dưới, họ hàng, thân thuộc, cùng nhau móc ngoặc để kiếm chác trên lưng nghèo khổ của quân chúng lao động. Từ sau đại hội 7 giữa 1991, tầng lớp đặc quyền đặc lợi càng thêm biến chất cách mạng, lao vào tước đoạt và chia chác của cải xã hội, làm giàu nhanh chóng một cách phi pháp; nó ngày càng mang tính chất mafia bất lương và tàn ác, một kiểu tư bản đỏ, rừng rú mà lịch sử Việt Nam chưa từng có."(33)

Nếu những người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại kiên định ý kiến: "không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền."(34), bị ông cho là "trịch thượng" và "không thực tế". Thì theo ông, việc "hòa giải – hòa hợp" với lũ "mafia bất lương và tàn ác, một kiểu tư bản đỏ, rừng rú mà lịch sử Việt Nam chưa từng có" như thế, sẽ được gọi là hành động gì? Ông có thấy rằng ông rất mâu thuẫn với chính ông không?

Loại trừ tầng lớp "mafia bất lương, tàn ác" nói trên, ông đả nhận định rằng: "Đảng có gần 2 triệu người, trên tổng số hơn 70 triệu dân. Nhưng thật ra trong số 2 triệu đảng viên ấy, đông đảo đảng viên thường, chiếm đến 90%, không có chút tiếng nói và quyền lực nào. Họ chẳng khác gì mấy với quần chúng ngoài đảng. Họ cũng thấp cổ bé họng, cũng bị tước đoạt quyền suy nghĩ và quyền tự do ngôn luận, chỉ có cúi đầu và vỗ tay tán tụng các nghị quyết của đảng."(35)

Qua cách trình bày của ông, chúng tôi nhận thấy ông chia đảng viên cộng sản Việt Nam ra làm 2 loại:

1- Loại đặc quyền đặc lợi (10%), mà ông coi chúng là "mang tính chất mafia bất lương và tàn ác". Vậy mà những người Việt ở hải ngoại không chấp nhận "hòa giải - hòa hợp" với chúng thì bị ông coi là cực đoan. Khi đặt vấn đề vì chúng là kẻ có tội, phá hại đất nước, phải rút lui, phải giao quyền, thì ông lại cho rằng như thế là trịch thượng, không thực tế. Sự loanh quanh trong lý giải của ông vẫn chỉ là muốn "hòa giải – hòa hợp" với bọn mà ông gọi là "mafia bất lương và tàn ác". Ngay chính ông, cũng đã từng nằm trong số "đặc quyền đặc lợi ấy", vậy thử hỏi ông có "hòa giải – hòa hợp" với chúng được không?

Chúng tôi nghĩ rằng chỉ có những kẻ ít nhiều cũng bất lương và tàn ác mới muốn "hòa giải – hòa hợp" với chúng để mở rộng thêm thành phần đặc quyền đặc lợi. Tổ tiên ta đã dạy: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" ông ạ!!!

2- Loại đảng viên thường (90%) như cách gọi và ước lượng của ông, mà ông còn cho đó là lương thiện.

Chúng tôi chỉ xin nhắc lại ý của ông, rằng: "Sau khi đã giành được chính quyền, động cơ vào đảng đã xen lẫn tinh thần tự nguyện hy sinh với động cơ cá nhân: trở nên cán bộ có chức có quyền và từ đó có quyền lợi riêng. Càng về sau động cơ cá nhân càng chiếm ưu thế, để từ sau 1954, hầu như động cơ cá nhân vào đảng ở các cơ quan chính trị, kinh tế, xã hội, ở các địa phương chỉ là để trở thành cán bộ có chức có quyền nhằm tiến thân."(36)

Ông rất trung thực viết những giòng trên, chỉ thiếu sót tý chút là cái động cơ vị kỷ, vị lợi vào đảng cũng có cả ở trong lực lượng vũ trang (binh lính, công an, cảnh sát) và văn hóa, giáo dục. Nếu không làm sao loại như Trần Độ, "văn còn dốt vũ còn ngu", mà từ 1946 nhờ là lính hầu của Trường Chinh, nên nhảy một phát thành "chính trị viên" của trung đoàn thủ đô (!!!); Nguyễn chí Thanh thành đại tướng; anh chàng Vũ đức Phúc, giáo viên cấp I, xuất thân từ thổi loa thông tin ở phố huyện Gia-lâm, (Hà-nội) thành Viện phó Viện văn học; anh giáo viên lớp 3 tỉnh lẻ Lạng-sơn là Vũ Khiêu thành Viện trưởng Viện Mỹ học Marx-Lênin; một anh biết đọc biết viết còn "chậm như rùa" là Phạm Hồng trở thành Phó chủ nhiệm ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài; hay một chàng học chưa xong cấp 2 phổ thông như Hồ Trúc, thành thứ trưởng bộ giáo dục, và v.v…, kể sao hết được những loại giun dế đó!!!

Đại tá nhà báo như ông thì hiển nhiên ông phải biết trong lực lượng vũ trang của cộng sản, tụi giữ chức chính trị viên hay chính ủy là lũ ngu nhất nhưng lại là lũ có quyền sinh sát nhất và cũng là lũ công thần chủ nghĩa. Những người ở miền Nam Việt Nam và nhất là ở hải ngoại nghe mấy tiếng "chính trị viên" hay "chính ủy" tưởng giỏi lắm, có biết đâu đó chính là tụi như quân SS của Hitler. Tụi đó là hình hài Việt Nam, nhưng mang tâm hồn "nô lệ đỏ". Chúng chính là kẻ huấn luyện, uốn nắn, gò ép lực lượng vũ trang thực hiện tôn chỉ hàng đầu là trung với đảng.

Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh và lũ thừa kế còn tồn tại được chính là dựa vào "công cụ chuyên chính" này (lính và công an) mà nòng cốt tai, mắt của chúng chính là lũ "chính trị viên" và "chính ủy". Bao tội ác tàn bạo của lực lượng ngụy quân cộng sản đều do bọn "chính trị viên" và "chính ủy" giáo dục, kích động và chỉ huy. Và, cũng chúng là kẻ có đặc quyền quyết định cho ai làm "cảm tình viên của đảng", cho ai "vào đảng". Chúng là tai, mắt của Hồ xưa kia, và của lũ đầu lãnh kế nghiệp Hồ cho tận bây giờ trong từng đơn vị to, nhỏ của lực lượng ngụy quân cộng sản.

Về lũ đảng viên thường mà ông cho rằng chúng "chẳng khác gì mấy với quần chúng ngoài đảng cũng thấp cổ bé họng", là hoàn toàn sai và ông lại một lần nữa tự mâu thuẫn!

Trước hết, dân số Việt Nam hiện nay là 82 triệu. Đảng viên cộng sản có 2 triệu đứa. Cứ cho cái đứa "thấp cổ bé họng nhất" trong số 2 triệu tên, thì, hắn cũng được tụi đầu lãnh cộng sản Việt gian coi trọng hơn 80 triệu dân thường, mang cái tên "quần chúng của đảng" - mà nghĩa đen là nô lệ của đảng!

Làm sao bọn chúng lại giống "quần chúng ngoài đảng" được. Quyền "ăn trên ngồi chốc" của bọn chúng được "điều 4, hiến pháp cộng sản 1992" bảo đảm chắc như bắp, ông đã quên rồi sao? Nếu các tội ác như giết dân, phá hại đất nước là từ những cái đầu Việt gian của tập đoàn cộng sản chóp bu nghĩ ra, thì chính cái lũ "đảng viên thường" này là kẻ thi hành. Tỷ dụ: phó chính ủy cộng quân ở miền Nam, là Trần Độ, chỉ nghĩ ra biện pháp "pháo kích trường học, chợ búa, bệnh viện" để gây hoang mang, bất ổn trong đời sống của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, chứ hắn đâu có trực tiếp bắn. Mà chính là lũ "đảng viên thường" trong ngụy quân cộng sản trực tiếp bắn giết hoặc thúc ép binh lính chưa là đảng viên phải bắn giết.

Chính ông đã hạ bút viết rằng: "Càng về sau động cơ cá nhân càng chiếm ưu thế, để từ sau 1954, hầu như động cơ cá nhân vào đảng ở các cơ quan chính trị, kinh tế, xã hội, ở các địa phương chỉ là để trở thành cán bộ có chức có quyền nhằm tiến thân"(37)!!!

Vào đảng với cái lý tưởng như vậy thì làm sao lương thiện được!(?) Cũng là phường hút máu mủ của dân mà thôi. Có điều thân phận dòi bọ, ruồi muỗi thì lép vế hơn, nhưng vẫn là loại hút máu dân.

Trường hợp này ông dùng chữ cũng chưa chính xác. Bởi vì đối với tụi cộng sản và ngay cả những đứa nâng bi tụi cộng sản cũng không thể dùng cụm từ lương thiện được. Bọn chúng chỉ là đại bất lương hoặc ít bất lương. Muốn bắt đầu cuộc sống lương thiện thì hành động đầu tiên là phải ra khỏi đảng cộng sản. Khác nào gái điếm muốn hoàn lương thì phải ra khỏi động điếm; chứ làm gì có chuyện "phấn đấu" vào làm điếm trong động mà vẫn trong trắng, ngây thơ!!!

Vì thế cho nên làm sao lại mơ hồ, u mê để có thể "hòa giải - hòa hợp" với đảng viên thường được. Nếu họ đủ liêm sỉ để thấy được nỗi nhục "bị tước đoạt quyền suy nghĩ và quyền tự do ngôn luận, chỉ có cúi đầu và vỗ tay tán tụng các nghị quyết của đảng" như ông viết, thì họ nên vứt thẻ đảng trở về hội nhập với đại dân tộc. Hành động đó là sự "hòa giải - hòa hợp" rồi. Đâu cần phải đặt vấn đề này ra nữa. Nếu 90% đảng viên là đảng viên thường mà vứt thẻ đảng thì cái lũ đầu lãnh Việt gian cộng sản kể như mạt rệp. Và sáu tiếng "độc lập, tự do, hạnh phúc" sẽ nhanh chóng thành hiện thực cho toàn dân Việt Nam và đất nước Việt Nam.

Một vấn đề khác được được đặt ra. Đó là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản xâm lược ở hải ngoại có "hòa giải - hòa hợp" với những người hiện nay được gọi là "tiếng nói đấu tranh" cho dân chủ ở trong nước không?

Câu trả lời là có. Nhưng là có với một số điều kiện.


Trước hết, cần ghi nhớ rằng chúng ta là những người tỵ nạn cộng sản xâm lược. Ước nguyện của chúng ta và cũng là mục tiêu của chúng ta là hòa giải - hòa hợp với mọi lực lượng trong và ngoài nước Việt Nam nhằm chống ách độc tài cai trị của bè lũ cộng sản Việt Nam tiếm quyền, xây dựng một đất nước Việt Nam nhân quyền được tôn trọng, mọi quyền tự do được thi hành, bình đẳng giữa các sắc tộc dân, bảo vệ trọn vẹn tài nguyên thiên nhiên, lãnh thổ, lãnh hải và không phận của Tổ quốc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, góp phần bảo vệ sự chung sống hòa bình và bình đẳng giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Cho nên, dù ở ngoài nước hay trong nước, bất cứ cá nhân nào, nhóm nào, tổ chức đảng phái nào thực sự, thực lòng đấu tranh nhằm những mục tiêu nói trên đều là đối tượng "hòa giải – hòa hợp" trong bình đẳng và hiệu quả.

Vì thế không thể cứ thấy cá nhân nào trong bọn cộng sản "ngã ngựa" là vội coi như họ đấu tranh cho dân chủ. Thí dụ: tên khát máu Nguyễn hà Phan hay Đào duy Tùng bị hất ra khỏi chính trị bộ; những tên Bùi thiện Ngộ, Bùi quốc Huy hạ bệ bọn Dương Thông, Quang Phòng. Hoặc trước đó là những tên tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, Phan Bình, kẻ chết một cách bí ẩn, kẻ bị ám sát cả cha lẫn con v.v. Rồi lại nữa, tên Tố Hữu bị ra khỏi chính trị bộ sau vụ giá, lương, tiền; tên Trần bạch Đằng thì không tài nào tóm được cái ghế dù là ủy viên dự khuyết trung ương. Các tên Vũ đình Liệu, Nguyễn ngọc Trìu thì văng ra khỏi hai cái ghế phó thủ tướng và gần đây là vụ Lê khả Phiêu, Lê minh Hương và Trương tấn Sang v.v. Nhiều thí dụ đại loại như vậy. Bọn chúng rớt đài là vì đấu đá phe phái mà thôi. Hệt như cái vụ gọi là "xét lại chống đảng", cũng chỉ là khi ấy tụi Việt gian theo Mao được Hồ cho phép bóp cổ tụi Việt gian theo Brê-giơ-nép, vì bọn chúng làm ảnh hưởng đến kế hoạch đu dây của Hồ giữa anh cả Nga-xô và anh Hai Ba Tàu, nhằm nhận được "viện trợ" của cả hai cho kế hoạch vũ trang xâm lược Việt Nam Cộng Hòa của Hồ.

Xin tạm điểm vài tên đầu trò của nhóm "xét lại" để xem chúng là kẻ có tội đến mức nào. Dương bạch Mai, kẻ cùng Trần văn Giàu là hai tên chủ chốt trong vụ sát hại các giáo phái ở miền Nam Việt Nam trong các năm 1945-46 hàng chục vạn người. Nguyễn văn Trấn là kẻ âm mưu cài người vào các tổ chức yêu nước không cộng sản để cướp công và phá các tổ chức đó, như tổ chức thanh niên của kỹ sư Kha vạng Cân chẳng hạn. Và, Nguyễn văn Trấn cũng là kẻ đóng góp ý kiến cho Võ nguyên Giáp để lập ra "đảng ma" Nhân dân Cách mạng ở trong Nam và tổ chức "Mặt trận giải phóng" (xem cuốn "Gửi Mẹ và Quốc hội"). Ưng văn Khiêm, là kẻ nắm bộ ngoại giao, năm 1956 đã ký giấy dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng (Phạm văn Đồng khẳng định lại hành động Việt gian đó vào 1958).

Ngay Hoàng minh Chính, cho đến tận bây giờ, lúc nào cũng nhận là "tổng thư ký đảng dân chủ Việt Nam", cố tình lờ đi việc ông ta là "đảng viên cộng sản" được Hồ giao cho giữ chức "tổng thư ký đảng dân chủ Việt Nam" để giám sát và lèo lái đảng "bạn" đi vào xa lộ của chủ nghĩa thực dân đỏ, và lừa quốc tế là có đa đảng. Trong nhóm "xét lại" còn có một số học về điện ảnh, văn học từ Nga-xô về, hoàn toàn là những tên "tây con" như người Hà-nội gọi chúng khi ấy. Đi đâu, đứng đâu cũng "lốp bốp", "lép nhép" tiếng Nga. Bọn chúng ra công truyền bá tinh thần sùng bái mẫu quốc đỏ Nga-xô qua văn học, nghệ thuật, báo chí. Có những kẻ lập dị từ ăn ở, đi lại, cứ là như Đốt-tôi-épxki, Pao-tốp-xki, Tchec-nư-xép-xki, Mei-a-cốp-xki, Pô-lê-vôi mũi tẹt da vàng vậy.

Ngay như bác sĩ Nguyễn khắc Viện, một tên cơ hội bẩn thỉu, biết bao lần "nói viết theo đuôi Tố Hữu", xoay như thò lò. Ngay đầu 1991, Nguyễn khắc Viện còn viết trên báo Nhân dân, cảnh giác chớ "mở cửa cho phương tây", mà phải ưu tiên đặc biệt quan hệ toàn diện với Nga-xô. Bài báo chưa khô mực thì Nga-xô đổ cái rụp. Cả đám "công dân loại 2" ở Hà-nội và Sài-gòn cười tên thò lò Nguyễn khắc Viện, sắp xuống lỗ vẫn cơ hội!!!

Tất cả những tên thò lò lưu manh đó, đều có điểm giống nhau là, khi sắp chết mới dám viết "chút xíu trung thực" để kêu gọi lòng thương hại của thế hệ sau. Đó là loại như Xuân Diệu, Chế lan Viên, hay Nguyễn văn Trấn, Nguyễn Xiển, Nghiêm xuân Yêm v.v.

Thưa ông Bùi Tín,

Bản thân ông là một nhà báo kỳ cựu của cộng sản. Anh em họ hàng của ông cũng nhiều người là nhà văn, nhà báo cộng sản. Chắc chắn những sự việc nêu trên ông đều biết, mà còn biết tỷ mỷ nữa kia. Tại sao ông kêu gọi nên "trung thực" mà lại lờ đi những kẻ viết sách xuyên tạc sự thật, đánh bóng lũ Việt gian, tay sai của Nga-xô, thành như những người yêu nước, để những người Việt trung hậu ở trong và ngoài Việt Nam, cũng như các thế hệ sau này, vì thiếu thông tin mà bị mắc quả lừa. Ông thừa biết tụi tự nguyện làm tay sai cho Nga-xô đã tích cực biết nhường nào nên chưa đầy 20 năm mà các sách báo của Nga, ảnh tài tử Nga đã đặc kín các thư viện trung ương và địa phương; các tủ sách nhà máy, công trường, nông trường, trường học mà còn trên đầu giường nhiều gia đình nông dân. Nhiều người cả đời chưa từng biết nước Nga ở đâu mà cũng đặt tên con là Mi-sa với Na-ta-sa. Nhiều nam nữ thanh niên không biết đến cả cái tên Nguyễn Du, Đoàn thị Điểm v.v., nhưng lại thuộc thơ Ê-xê-nhin; thuộc từng đoạn văn xuôi của Đốt-tôi-épxki; những lời "vàng ngọc" của Tchéc-nư-xépxki và tiểu sử của từ Tolstoi cho đến Bô-rít Pô-lê-vôi, Bun-đa-chúc, Fa-đê-ép, Gô-gôn,Tuốc-ghê-ép, Tchai-kốp-xki.!!!

Nhiều nam nữ thanh niên công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên và ngay cả binh lính, công an; thư tình viết cho nhau cũng nhố nhăng "chàng" gọi "nàng" là Lút-mi-la và "nàng gọi "chàng" là Xéc-gây. Học sinh, sinh viên hiểu về cuộc vượt sông Elbe" của "hồng quân Liên-xô" trong thế chiến thứ hai; về quân của Napoléon thất bại trước Ku-tu-dốp, mà không biết đến chiến thắng của Ngô Quyền; không biết đến quân của Lý Thường Kiệt đã đánh qua Tàu chặn đứng ý đồ xâm lược Việt Nam của Tàu, và không biết đến cả chiến thắng Rạch Gầm, Soài Mút của Quang Trung; còn buồn hơn nữa là chẳng biết đến Cử Huân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám là ai, cũng như mù tịt về khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học!!!(?)

Thử hỏi như vậy là chúng đấu tranh cho "dân chủ" của nhân dân Việt Nam hay đấu tranh để xóa bỏ ảnh hưởng của văn học, nghệ thuật Việt Nam để cho tinh thần phụ thuộc, sùng bái Nga-xô đâm chồi, nẩy lộc trên khắp thành thị, xóm làng Việt Nam?

Đối với loại này, "hòa hợp - hòa giải" để nắm tay nhau cùng đi về hướng Mát-scơ-va chăng, cho dù là Mát-scơ-va của Putin?(!) Bài học làm tay sai cho Nga-xô còn nóng hổi!!!

Về nhóm "đấu tranh cho dân chủ", thành quả cụ thể chưa có gì rõ ràng. Chỉ có thể căn cứ vào quan điểm của họ qua phỏng vấn và các bài viết đã được công khai hóa, thì thấy:

* Một số người có những bài viết rất "bốc lửa", nêu đích danh một số tên đầu lãnh cộng sản và kể tội bọn chúng như những bài viết của ông Trần Khuê là một thí dụ. Nhưng nếu đọc cẩn thận thì thấy ông Trần Khuê chỉ đánh vào ngọn chứ không dám nêu ra cái gốc của tội lỗi. Chưa nói đến rằng, quan điểm của ông Trần Khuê còn rất nguy hiểm. Trong khi vạch tội những loại Đỗ Mười, Phạm thế Duyệt, Đào duy Quát v.v., thì ông Trần Khuê lại đề cao Hồ chí Minh đến mức nâng lên thành chủ nghĩa Hồ chí Minh. Ông Trần Khuê tự bộc lộ là đệ tử cực kỳ trung thành của Hồ chí Minh, bỏ qua bằng chứng tội ác của Hồ, không muốn nhìn vào biết bao tài liệu đã và đang được khui ra. Hồ là kẻ độc tài nhất, tàn bạo nhất, là tên đại Việt gian nhất, không chỉ trong toàn bộ những tên Việt gian cộng sản, mà là nhất trong lịch sử Việt Nam. Tất cả những tên mà Trần Khuê hài tội đều do Hồ đề bạt, cất nhắc, đào tạo và điều đó chứng tỏ Hồ phải chịu trách nhiệm!

* Cho nên việc đặt Trần Khuê là người đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay thật là hài hước!!!

hải ngoại hiện nay, cần nhớ lại xem, tại sao 50 ngàn người đã xuống đường trong nhiều ngày, nhiều đêm để đấu tranh việc tên Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ chí Minh ở trong cửa tiệm của hắn.

Trần Trường chỉ treo ảnh của Hồ "trong tiệm của hắn thì bị phản đối".

Còn Trần Khuê ca ngợi, vinh danh Hồ, tuyên truyền rộng rãi trên các web thì được nâng lên thành nhà đấu tranh cho dân chủ!!!

Trần Trường và Trần Khuê, ai là kẻ xuyên tạc sự thật, bóp méo lịch sử và cực kỳ nguy hiểm cho việc đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam?!!!

Thử giả dụ như sau:

Một người Do-thái nào đó treo cờ phát-xít Đức và ảnh của Hitler ở trong nhà của họ và một người Do-thái khác viết sách, báo ca ngợi Hitler; thử hỏi kẻ nào đáng phỉ nhổ vào mặt hơn!!!

Là nạn nhân của tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh, phải bỏ tổ-quốc đi lưu vong, tỵ nạn, nhưng vẫn nung nấu lòng yêu nước, phục quốc. Vậy có thể nào phục quốc bằng cách đi theo một kẻ lấy đầu đội đít Hồ chí Minh lên mà thờ được không?

Phải chăng vì Trần Khuê bị cộng sản quản chế, mới đây lại bị bắt v.v… nên là người đấu tranh cho dân chủ?

Phải căn cứ vào tuyên bố của họ, giấy trắng mực đen, chứ không phải nhìn vào việc cộng sản làm khó dễ hay bị bắt!

Trước đây, những tên tướng công an Mười Vân (Đồng Nai) bị tử hình; Năm Cam bị bắt; nguyên bộ trưởng điện, than Vũ ngọc Hải bị tù v.v… Như vậy cũng là đấu tranh cho dân chủ chăng?

Nhìn với góc độ là người tỵ nạn Việt gian cộng sản xâm lược, thì Năm Cam còn giúp mọi người thấy được bộ mặt thật của tập đoàn đầu nậu chóp bu của tụi Việt gian cộng sản đương quyền một cách thật cụ thể, nhất là công an và tòa án, công cụ chuyên chính của chúng. Còn Trần Khuê thì ngược lại, lớn tiếng tố cáo mấy tên cướp để rồi tạc tượng, lập đền thờ tên tướng cướp.

Công nhận công lao của Hồ như Trần Khuê quảng bá có nghĩa chúng ta đã tự phỉ nhổ vào tư cách tỵ nạn cộng sản xâm lược; phỉ báng sự hy sinh của quân, dân, cán, chính VNCH, và những nạn nhân của Hồ trong cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và những người đã nằm dưới biển sâu trong cuộc vượt biển, tìm đường sống!!! Từ Trần Khuê, tưởng cũng cần thiết phải nhắc lại nhân vật Trần Độ, tuy ông ta đã chết, nhằm khẳng định quan điểm trắng đen rõ ràng về khái niệm đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay.

Về trung tướng Trần Độ, phó chính ủy ngụy quân cộng sản xâm lược Việt Nam Cộng Hòa từ 1960 đến ngày chúng đặt xong ách cai trị thực dân đỏ năm 1975, thì đã nhiều ngòi bút, cả trong và ngoài Việt Nam, nâng bi đến mức từ một viên tướng mà toàn thân, mồm miệng đều ướt đẫm máu dân Việt Nam, trở thành hai lần anh hùng: anh hùng giải phóng dân tộc và anh hùng đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam (ống đu đủ của Nguyễn thanh Giang).